
Jump Arena Thảo Điền
63 Xa lộ Hà Nội, Thảo Điền, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh
Tuyệt vời
Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập số điện thoại của bạn để lấy lại mật khẩu đăng nhập!
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập số điện thoại của bạn để lấy lại mật khẩu đăng nhập!
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
24/09/2025
Thanh Diệu
1
Mỗi món ăn tại vùng đất Phú Thọ nay đều chất chứa trong đó câu chuyện của đất, của trời và của bàn tay người dân bản địa.
"Địa điểm Hòa Bình nay là Phú Thọ do Hòa Bình đã được sáp nhập thành Phú Thọ"
Giữa non cao mây trắng, Phú Thọ không chỉ làm say lòng người bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn khiến thực khách ngẩn ngơ với nền ẩm thực độc đáo, đậm đà bản sắc Mường. Từng món ăn nơi đây là kết tinh của núi rừng, là hơi thở của văn hóa và là ký ức của bao thế hệ người bản địa. Hãy cùng SmartTravel điểm qua 8 món ngon nức tiếng tại vùng đất Tây Bắc hữu tình này nhé!
Cơm lam là món ăn giản dị nhưng đầy quyến rũ, như chính mảnh đất mộc mạc và chân thành. Dù không phải là món ăn riêng biệt của nơi đây, cơm lam vẫn mang trong mình một hương vị rất riêng, vị dẻo bùi của nếp nương, vị thơm của tre rừng cháy sém, vị béo ngậy từ cốt dừa hoà quyện trong từng hạt gạo. Những ống cơm lam được bày trên mẹt lá chuối xanh non, bên cạnh vài chén muối vừng, thịt nướng, khiến bất kỳ ai từng thưởng thức cũng phải gật gù, xuýt xoa.
Để có được món cơm lam đúng điệu, người ta phải lựa chọn loại gạo nếp nương dẻo thơm nhất, ngâm kỹ qua đêm cho hạt no tròn, rồi trộn cùng cùi dừa thái sợi, chan thêm chút nước cốt dừa. Từng nắm gạo được nén chặt vào ống nứa tươi – loại nứa rừng có đường kính vừa phải, mùi thơm thanh dịu. Sau đó, những ống cơm được bịt kín bằng lõi mía và đặt lên bếp than hồng. Lửa liu riu cháy, khói bếp vấn vít, những mạch gạo chín từ từ, chắt chiu tinh túy từ tre, từ dừa, từ lửa và từ cả bàn tay cần mẫn của người nấu.
Cơm lam ngon nhất là khi vừa nướng xong, còn giữ được độ nóng và thơm. Tách lớp nứa cháy nhẹ bên ngoài, lớp cơm trắng ngần bên trong hiện ra, dẻo nhưng không nhão, thơm nức nhưng không gắt.
Chả cuốn lá bưởi là biểu tượng cho sự sáng tạo và tinh tế trong văn hóa ẩm thực người Mường khi họ biết tận dụng từng chiếc lá, ngọn rau của núi rừng để tạo nên một hương vị đặc trưng không nơi nào có được. Lá bưởi trở thành “chiếc áo” gói ghém hương vị của nhân thịt, khiến món ăn vừa có vị chát, cay nhẹ, lại thoảng mùi tinh dầu thơm rất riêng.
Thịt được chọn là thịt nạc vai hoặc ba chỉ, xay nhuyễn vừa đủ để giữ độ ẩm mà không bị bã. Gia vị ướp không cầu kỳ nhưng phải đúng: chút tiêu, hành, nước mắm, đôi lát gừng thái nhuyễn. Sau khi chuẩn bị phần nhân, người ta nhẹ nhàng cuốn từng lá bưởi đã rửa sạch quanh viên thịt, xiên qua que tre rồi đặt lên bếp than. Lửa hồng bập bùng, từng chiếc chả cháy xém, lớp lá bưởi chuyển màu vàng đượm, tỏa hương thơm nồng nàn.
Chả cuốn lá bưởi thường được dọn kèm trong các mâm cỗ ngày lễ, Tết của người Mường, nhưng ngày nay đã trở thành một trong những món “đặc sản phải thử” đối với du khách phương xa. Vị ngọt mềm của thịt heo thấm đẫm tinh dầu bưởi, hòa quyện cùng chút đắng nhẹ của lá nướng tạo ra một tổ hợp hương vị đậm sâu, tinh tế.
Từ những loài cá lăng, cá thiểu, cá bống suối to bằng bàn tay, người dân đã sáng tạo nên món cá nướng sông Đà, một món ăn mà vị ngọt tự nhiên được giữ lại trọn vẹn dưới than hồng, khiến bao thực khách mê mẩn. Món cá này là sự tiếp nối của truyền thống đánh bắt và chế biến cá suối vốn là nếp sinh hoạt bao đời của người miền núi ven sông.
Cá sau khi đánh bắt được làm sạch, để nguyên con và kẹp trong những thanh tre tươi. Trước khi nướng, người ta ướp cá với muối hạt, hành củ, tiêu rừng, sả đập dập, một ít hạt dổi nướng giã nhuyễn. Cá được đem phơi nắng nhẹ cho ráo rồi nướng trên bếp than đỏ rực. Người nướng phải đều tay, trở cá liên tục để lớp da chín giòn mà thịt bên trong vẫn giữ được độ ẩm mềm. Nhiều gia đình còn ủ cá đã nướng trong lá chuối tươi khoảng 30 phút để thịt thấm đẫm gia vị và thêm phần đậm đà.
Thưởng thức cá nướng sông Đà là thưởng thức cả dòng chảy của con sông. Lớp da giòn rụm, thịt cá ngọt, chắc và thơm lừng vị dổi, ăn kèm với muối chẩm chéo, rau rừng và xôi nếp nương là “đúng bài” nhất.
Măng chua nấu thịt gà là món ăn gắn bó với bếp lửa của bao mái nhà sơn cước, là vị thanh dịu xua tan cái oi nồng mùa hè, là chén canh nghi ngút khói trong chiều mưa se lạnh. Món ăn này không chỉ giúp cân bằng vị giác trong mâm cơm nhiều thịt mà còn là bài thuốc dân gian, vừa dễ tiêu, vừa tốt cho sức khỏe.
Để nấu được món canh chuẩn vị, người ta chọn gà Lạc Sơn – giống gà được nuôi thả tự nhiên, ăn rau rừng, uống nước suối nên thịt chắc, thơm, không dai cũng không bở. Măng chua được lấy từ rừng sâu, thái nhỏ, luộc sơ để khử vị gắt rồi đem xào cùng gà đã ướp hành, tiêu, mắm. Sau đó đổ nước vào hầm liu riu trên bếp củi suốt cả giờ đồng hồ cho đến khi nước dùng trong, măng mềm và thịt gà thấm đượm. Hạt dổi giã nhỏ, lá mắc mật hoặc rau răm được thả vào cuối cùng, tạo nên một làn hương thơm khó cưỡng.
Vị chua thanh của măng hoà quyện với ngọt đậm của thịt gà, xen lẫn chút cay nồng nơi đầu lưỡi, khiến bát canh trở nên đặc biệt hơn bất kỳ món ăn cao cấp nào. Thực khách có thể ăn cùng cơm nóng hoặc bún tươi, đều trọn vị và dễ ăn.
Với người dân, thịt trâu không chỉ là thực phẩm mà còn là niềm kiêu hãnh, biểu tượng của sự vững chãi, no đủ. Trong hàng chục cách chế biến thịt trâu thì món thịt trâu nấu lá lồm luôn được nhắc đến như một đại diện tiêu biểu cho hương vị ẩm thực bản địa. Món ăn này là sự kết hợp giữa thịt trâu thui thơm và lá lồm – một loại lá rừng có vị chua thanh tự nhiên, được người dân tận dụng như một thứ “gia vị trời cho” của vùng núi.
Để món ăn đạt chuẩn, thịt trâu sau khi thui vàng lớp da sẽ được rửa sạch và thái miếng vừa ăn, rồi đem xào săn với hành khô, gừng và nước mắm. Lá lồm được rửa kỹ, vò nhẹ rồi cho vào nồi hầm chung. Tùy khẩu vị, người ta có thể thêm chút ớt tươi, tiêu rừng để tăng vị cay. Món ăn cần nấu lâu trên bếp củi, để thịt trâu nhừ mềm mà không bị nát, nước canh sánh lại, sánh như cái tình sâu đậm của người miền núi. Lúc cuối, hạt dổi hoặc mắc khén được rắc vào, khiến hương thơm bừng lên đầy mê hoặc.
Mỗi miếng thịt trâu là một sự hòa quyện: dai mềm, đậm đà, ngấm trọn vị chua thanh dịu của lá rừng. Ăn cùng cơm trắng là tuyệt, nhưng nếu chấm với bún hoặc mì tươi thì càng đậm đà và lạ miệng. Không phải ai lần đầu cũng quen được vị chua đặc trưng này, nhưng một khi đã “ngấm”, người ta sẽ nhớ mãi.
Nói là món xôi nhưng đó cũng là một “bức tranh” được dệt nên từ đất trời, thiên nhiên và bàn tay khéo léo của người phụ nữ Tây Bắc. Mỗi nắm xôi là một gam màu rực rỡ: đỏ của gấc, tím của lá cẩm, xanh từ lá riềng, vàng từ nghệ, trắng tinh khôi từ nếp nguyên bản, gói ghém sự trân trọng với trời đất và lòng hiếu khách với bạn phương xa.
Gạo được chọn là nếp nương hạt tròn, thơm dẻo, gieo trồng trên những thửa ruộng bậc thang quanh co khắp các triền núi. Trước khi đồ xôi, người ta ngâm gạo trong các loại nước màu tự nhiên suốt đêm để từng hạt thấm đẫm sắc hương. Sau đó, gạo được cho vào chõ tre, hấp cách thủy trên bếp củi, canh lửa vừa đều tay để giữ được độ dẻo mà không bị nát.
Xôi nếp nương được ăn kèm muối lạc hoặc thịt nướng, đôi khi là một nhúm mỡ hành nhẹ, khiến hương vị trở nên tròn đầy. Không gian để thưởng thức món ăn ấy lý tưởng nhất là ở một góc nhà sàn ở bản Lác, nơi tiếng cười trẻ con vang vọng, nơi lòng người như mềm lại trong sự tĩnh lặng êm đềm.
Không có mâm cỗ truyền thống nào của người Mường lại thiếu đi chum rượu cần. Thức uống này là một biểu tượng văn hóa mang tính cộng đồng sâu sắc, nơi người ta không uống một mình mà cùng nhau quây quần, cùng một chiếc cần, cùng nâng chén bằng ánh mắt và sự tin cậy. Rượu cần có mặt trong mọi nghi lễ quan trọng: cưới hỏi, lễ hội, mừng nhà mới, hay đơn giản chỉ là một đêm sum họp giữa bạn bè.
Nguyên liệu làm rượu cần là gạo nếp ngon trộn với men lá rừng – thứ men độc quyền của người Mường, làm từ hàng chục loại cây rừng như riềng, lá mít, lá ổi, thảo quả, vỏ cây gỗ mun... Gạo được đồ chín, trộn men rồi cho vào chum đất, bịt kín, ủ trong vòng một tháng để lên men tự nhiên. Khi rượu đủ tuổi, người ta đổ nước suối vào và dùng cần trúc để hút rượu trực tiếp từ chum. Điều đặc biệt là rượu càng uống càng ngọt, càng lâu càng đằm, càng đậm đà hương rừng và tình người.
Thịt lợn muối chua là minh chứng rõ nhất cho nghệ thuật lên men của đồng bào Tây Bắc. Họ không cần đến công nghệ hiện đại mà chỉ dùng gió núi, nắng rừng và men lá để bảo quản thịt, tạo ra một hương vị mà không loại xúc xích hay nem nào có thể bắt chước được.
Nguyên liệu là thịt lợn choai – giống lợn nuôi thả rông trong bản, ăn rau rừng, gạo cám nên săn chắc và thơm ngọt. Thịt được thái miếng nhỏ, trần sơ, rồi trộn với tỏi, ớt, muối hạt, thính gạo rang và đặc biệt là men lá truyền thống. Sau khi trộn đều, thịt được nén trong chum kín, ủ từ 5–7 ngày, khi dậy mùi thơm chua dịu là có thể ăn.
Thịt lợn muối chua ngon nhất khi ăn kèm với lá sung, lá lốt, lá ổi non hoặc rau rừng chấm tương ớt. Vị chua dìu dịu tan dần nơi đầu lưỡi, kéo theo chút cay nồng nơi sống mũi và dư vị béo ngậy của mỡ thấm trong từng sớ thịt.
Mỗi món ăn tại vùng đất Phú Thọ đều chất chứa trong đó câu chuyện của đất, của trời và của bàn tay người dân bản địa. Đó không chỉ là món ăn để thưởng thức, mà là dư vị để nhớ, là hồn cốt để giữ lấy một vùng quê trầm mặc và sâu lắng.
Tốt cho mắt
Giảm sáng để giúp mắt bạn được nghỉ ngơi.
Cố định Header
Tùy chỉnh cỡ chữ bài viết
Nhỏ 14px
Aa
Vừa 16px
Aa
Lớn 18px
Aa