
Vincom Plaza Bắc Kạn
Tổ 8A, Phường Đức Xuân, Thành Phố Bắc Kạn, Tỉnh Bắc Kạn.
Tuyệt vời
Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập số điện thoại của bạn để lấy lại mật khẩu đăng nhập!
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập số điện thoại của bạn để lấy lại mật khẩu đăng nhập!
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
Vui lòng nhập mã OTP được gửi về số điện thoại của bạn để tạo mật khẩu đăng nhập
Gửi lại mã (01:00)
Mật khẩu tối thiểu 6 ký tự bao gồm ít nhất 1 chữ số, chữ thường, chữ in hoa và ký tự đặc biệt
20/09/2025
Lan Anh
3
Giữa lớp sương mỏng giăng trên núi, Thái Nguyên không chỉ níu chân kẻ lữ hành bởi cảnh sắc hoang sơ mà còn bởi hương vị mộc mạc, đậm đà từ những món ăn bản địa.
Giữa những nếp nhà sàn nép mình bên triền núi, khói bếp len qua từng vách gỗ như gợi lại hương vị của một miền đất không vội. Thái Nguyên không chỉ là nơi có hồ Ba Bể trong veo, rừng nguyên sinh hoang dã hay những phiên chợ vùng cao rộn ràng sắc áo chàm, mà còn là cái nôi của những món ăn mang linh hồn núi rừng. Ẩm thực ở đây không hào nhoáng, không cầu kỳ, nhưng mỗi món là một mảnh ký ức gói trong lá dong, nêm bằng nắng gió và thấm đẫm tình người.
Miến dong Na Rì là một trong những đặc sản nổi bật của Thái Nguyên, không chỉ bởi hương vị mà còn vì cách làm thủ công vẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Miến được làm từ củ dong riềng đỏ – một giống cây mọc ở vùng núi cao, nơi đất rừng sạch và khí hậu mát lành. Người dân thường trồng dong vào đầu xuân và thu hoạch vào cuối năm. Củ được rửa sạch, xay nhuyễn, lọc nhiều lần để lấy tinh bột rồi tráng thành bánh, phơi khô và cắt sợi. Miến Na Rì không tẩy trắng, không pha trộn, sợi miến có màu xám tro tự nhiên, bóng nhẹ, dai và không dính. Khi nấu lên, miến trong, giữ độ dai và không bở, dù xào hay nấu nước. Món ăn này thường xuất hiện trong mâm cỗ ngày Tết, hoặc dùng làm quà biếu vì độ lành và giá trị cao. Hương vị ngọt nhẹ từ tinh bột nguyên chất, kết hợp với thịt gà đồi hoặc măng khô, khiến bất kỳ ai từng nếm thử cũng lưu luyến mãi.
Trong gian bếp truyền thống của người Tày ở Thái Nguyên, không khó để bắt gặp hình ảnh những dây lạp sườn treo lơ lửng trên gác bếp. Lạp sườn ở đây không giống bất kỳ nơi nào khác bởi cách chế biến độc đáo: hong khói nhiều ngày bằng củi rừng, vỏ bưởi và vỏ quýt khô. Thịt lợn bản được lựa kỹ, thái dải, ướp cùng tiêu rừng, mắc khén, tỏi, gừng và chút rượu ngô. Sau khi nhồi vào ruột non, lạp sườn được treo trên bếp cho khô dần, thấm hương khói, trở nên săn chắc và có mùi thơm rất đặc trưng. Khi thưởng thức, người ta nướng hoặc rán sơ, cắt lát mỏng. Miếng lạp sườn có lớp vỏ giòn nhẹ, bên trong béo mềm, cay tê, thơm nồng mùi rừng núi. Đây là món ăn không thể thiếu trong các dịp Tết, cưới hỏi, hội hè – vừa là thực phẩm dự trữ, vừa là niềm tự hào của người giữ bếp.
Khâu nhục là món ăn mang đậm dấu ấn văn hóa của người Tày, thường xuất hiện trong các dịp cưới hỏi, lễ lạt hoặc cúng tổ tiên. Tên gọi "khâu nhục" nghĩa là thịt hấp mềm – miêu tả đúng đặc trưng của món ăn. Nguyên liệu chính là thịt ba chỉ bản, khoai môn và các loại gia vị địa phương như mắc khén, húng dũi, hành khô, nước tương. Thịt được luộc sơ, khía vỏ, ướp kỹ rồi xếp vào bát tô, lót khoai môn bên dưới và đem hấp cách thủy suốt vài giờ. Khi mở nắp, cả gian bếp ngập tràn mùi thơm dịu ngọt. Khâu nhục mềm, béo mà không ngấy, ăn với cơm trắng hay xôi nếp đều dậy vị. Món ăn không đơn thuần là một phần trong bữa tiệc mà còn thể hiện sự chu đáo, kiên nhẫn và lòng hiếu khách của người miền núi.
Bánh ngải, hay còn gọi là pẻng cút, là món bánh truyền thống được người Tày làm vào dịp Thanh minh hoặc lễ cúng tổ tiên. Nguyên liệu chính là bột nếp nương dẻo thơm và lá ngải cứu hái từ rừng. Lá ngải sau khi luộc chín sẽ được giã nhuyễn, trộn với bột nếp, tạo nên một màu xanh thẫm đặc trưng. Nhân bánh gồm đường phên nấu chảy, trộn cùng vừng đen rang thơm. Bánh nhỏ, tròn, được nặn khéo léo và hấp chín bằng nồi đất hoặc nồi gỗ. Khi ăn, lớp vỏ dẻo mịn thơm mùi lá thuốc, nhân bên trong bùi bùi, ngọt thanh, thấm đẫm sự tinh tế của bàn tay phụ nữ miền núi. Không chỉ ngon, bánh ngải còn là món ăn gắn liền với tín ngưỡng và đời sống tâm linh của người Tày Thái Nguyên.
Pẻng phạ, nghĩa là “bánh trời”, là món bánh mang tính biểu tượng trong đời sống tâm linh của người Tày. Bánh thường xuất hiện trong các nghi lễ cúng trời, cầu mùa, tạ ơn đất trời phù hộ mưa thuận gió hòa. Được làm từ gạo nếp nương ngâm kỹ, giã bằng chày gỗ, nặn tròn rồi hấp chín, bánh có thể được rắc thêm mè trắng hoặc gói trong lá chuối. Hình thức tuy giản dị nhưng mang nhiều lớp nghĩa. Người Tày tin rằng bánh tròn tượng trưng cho sự viên mãn, cho vầng trăng mùa gặt, cho sự đủ đầy. Khi ăn, bánh dẻo thơm, vị mộc mạc, đôi khi kèm chút mật ong hoặc đường phên. Trong không khí lễ hội, món bánh nhỏ này là hiện thân cho lòng biết ơn và khát vọng an lành của cả cộng đồng.
Xôi Đăm Đeng không chỉ là món ăn mà còn là một biểu tượng văn hóa của người Tày mỗi dịp Tết đến xuân về. Loại xôi này đặc biệt bởi sắc màu rực rỡ – tím, vàng, đỏ, xanh, trắng – tượng trưng cho ngũ hành và những ước nguyện về cuộc sống hài hòa. Gạo nếp nương được lựa kỹ, ngâm từ đêm hôm trước, rồi nhuộm bằng lá cẩm, nghệ, cơm xôi đỏ, lá nếp… hoàn toàn tự nhiên. Sau khi hấp bằng chõ gỗ, xôi dẻo, thơm, từng hạt căng bóng và không dính tay. Xôi thường được bày lên mâm lễ, dùng để đãi khách hoặc chia phần trong lễ hội. Mỗi miếng xôi là một lát cắt văn hóa, chứa đựng sự khéo léo, tôn kính tổ tiên và tinh thần cộng đồng của người dân vùng cao.
Rượu men lá là thức uống không thể thiếu trong mọi cuộc vui, đám cưới, đám hỏi hay lễ hội ở Thái Nguyên. Men lá được làm thủ công từ hơn 20 loại lá cây rừng như lá vối, dây lằng, lá ổi, húng chanh… tùy theo từng gia đình. Gạo nếp nương sau khi nấu chín sẽ được trộn men, ủ trong chum đất vài ngày rồi chưng cất bằng nồi gang truyền thống. Rượu thu được trong veo, thơm dịu, uống vào êm mà ngấm sâu. Không sốc, không nhức đầu – đó là điều khiến rượu men lá được xem là đặc sản quý. Trong không khí se lạnh của vùng cao, ngồi bên bếp lửa, nâng chén rượu men lá cùng vài miếng lạp sườn hay cá nướng, người ta cảm nhận rõ ràng vị của đất, của rừng, và của lòng người hiếu khách.
Rau dớn là một loại rau rừng mọc hoang dại ở ven suối, dưới tán cây rậm của rừng Thái Nguyên. Loại rau này không trồng được, chỉ hái khi mưa xuống và rừng đủ ẩm. Bà con dân tộc Tày, Nùng thường hái những ngọn non mập mạp, rửa sạch, trụng sơ qua nước sôi rồi làm nộm với vừng lạc, mẻ chua, hoặc xào đơn giản với tỏi. Rau dớn có độ giòn nhẹ, mướt, vị ngọt thanh, nhai sần sật rất vui miệng. Vào mùa rau dớn, người ta thường hái nhiều để phơi khô dự trữ. Trong bữa cơm thường nhật của người Thái Nguyên, rau dớn không chỉ là món ăn mà còn là món quà từ thiên nhiên, thanh mát và lành tính, mang theo mùi rừng ẩm và chút hoang dã của núi non.
Ở làng Pác Ngòi ven hồ Ba Bể, cá nướng là món ăn quen thuộc nhưng đậm chất vùng cao. Cá suối nhỏ được bắt từ chính con lạch trong vắt quanh làng, đem làm sạch, ướp với lá mắc mật, tiêu rừng, muối hột, sau đó kẹp tre nướng trên than hồng. Mùi cá chín quyện mùi khói và hương lá rừng lan tỏa khắp sân nhà. Thịt cá chắc, ít xương dăm, da giòn nhẹ, hương vị đậm đà. Người bản địa ăn cá nướng cùng cơm nếp, rau rừng chấm muối tiêu chanh. Không cần cầu kỳ, món cá nướng ấy vẫn mang đến cảm giác ấm cúng và thỏa mãn, nhất là vào những chiều se lạnh, khi trời phủ sương và lửa bập bùng cháy nơi góc sân.
Măng vầu là loại măng non mọc vào mùa mưa trên các đồi rừng của Thái Nguyên. Người dân đi rừng hái về, chọn loại măng ngắn, mập, tước vỏ, thái lát rồi phơi ráo. Sau đó măng được trộn muối, ớt, tỏi rồi nén vào chum sành, để lên men tự nhiên trong khoảng 5–7 ngày. Thành phẩm là những lát măng vàng nhẹ, thơm dịu, giòn rụm, có vị chua thanh rất dễ ăn. Trong bữa cơm người miền núi, không gì đưa cơm bằng một đĩa măng muối ăn kèm cá kho, thịt luộc hay đơn giản chỉ là bát cơm nóng. Dù là món phụ, nhưng măng vầu muối chua lại gợi nhớ rất sâu – một ký ức giản dị mà đầy đủ vị rừng.
Ẩm thực Thái Nguyên không rộn ràng như phố thị, không bóng bẩy như những nhà hàng lớn, nhưng lại chạm sâu vào lòng người bằng sự mộc mạc, tinh tế và chân thật. Mỗi món ăn nơi đây là một lát cắt văn hóa, một câu chuyện lặng thầm về cách người miền núi sống cùng thiên nhiên, gìn giữ tập quán tổ tiên và trân trọng từng hương vị do chính tay mình tạo nên. Từ chén rượu men lá thơm nồng đến miếng lạp sườn hun khói cay tê, từ bát xôi Đăm Đeng rực rỡ sắc màu đến đĩa măng chua giòn sật… tất cả kết nối với nhau thành một bức tranh ẩm thực sống động, đậm chất núi rừng.
Nếu có dịp đặt chân đến Thái Nguyên, đừng chỉ ghé hồ Ba Bể hay khám phá rừng nguyên sinh. Hãy ngồi xuống bên bếp lửa, thưởng thức một bữa cơm đơn sơ với món ngon bản địa. Vì đôi khi, những hương vị bình dị ấy mới chính là điều níu bước ta trở lại – không phải bằng lý trí, mà bằng nỗi nhớ.
Tốt cho mắt
Giảm sáng để giúp mắt bạn được nghỉ ngơi.
Cố định Header
Tùy chỉnh cỡ chữ bài viết
Nhỏ 14px
Aa
Vừa 16px
Aa
Lớn 18px
Aa